1. Chuẩn đầu ra là gì?
Chuẩn đầu ra[1] cũng chính là mục tiêu đạt được của một sinh viên sau một thời gian học.
Chuẩn đầu ra của một bậc học (chứng chỉ, bằng tốt nghiệp đại học, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ) thuộc một ngành học (kế toán, cơ khí, xây dựng…) gồm có chuẩn đầu ra của tất cả các môn học trong bậc học ấy. Ví dụ chương trình đại học ngành kế toán tại Úc gồm có 24 môn học (subjects) thì chuẩn đầu ra của ngành kế toán bậc đại học là tổng cộng các mục tiêu của 24 môn học. Chuẩn đầu ra vì vậy chính là các năng lực được đào tạo để giúp người tốt nghiệp đại học (Cử nhân) làm công việc của một kế toán bậc 7 trong khung trình độ của Úc và bậc 6 trong khung trình độ của Việt Nam. Một chương trình đào tạo cho ra đời được những con người tốt nghiệp đảm nhiệm một công việc chuyên môn với sự tự tin cao là một chương trình có chất lượng.
Chuẩn đầu ra hay mục tiêu của một chương trình đào tạo được xây dựng, thiết kế[2] ngay từ lúc soạn thảo chương trình. Thông thường để có thể xây dựng được một chương trình đào tạo phục vụ tốt cho các doanh nghiệp thì trong quá trình thiết kế chương trình phải có sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp liên quan trong các ban soạn thảo chương trình[3] của nhà trường.
- Tại sao các chương trình đại học có nước 3 năm có nước 4 năm?
Tại các quốc gia theo mô hình giáo dục của Mỹ (một mô hình giáo dục đại chúng, mở, theo tín chỉ), các chương trình đại học thường kéo dài 4 năm (năm 1 gọi là Freshman, năm 2 là sophomore, năm 3 là Junior và năm 4 là senior). Trong lúc đó, tại các nước theo mồ hình giáo dục Anh quốc (một mô hình giáo dục chọn lọc, theo học kỳ) như Úc, New Zealand chỉ có 3 năm cho các ngành kinh tế, xã hội, nhân văn[4] và 4 năm cho các ngành khoa học-kỹ thuật, nhưng về mặt chất lượng (giờ học tại lớp với giáo viên; giờ nghiên cứu, thực tập; số lượng sách, báo phải đọc; kiểm tra, đánh giá; động lực lao động)[5] thì chuẩn đầu ra của tất cả các chương trình đào tạo của Úc và New Zealand (ANZSCO = Australia New Zealand Standard Classifications of Occupations) được đánh giá tương đương với các chương trình đại học 4 năm của các nước sử dụng mô hình chương trình đại học Hoa Kỳ và được Tổ chức Thương mại Thế giới công nhận (xem thêm Danh mục các Dịch vụ Phân loại theo Nhóm của WTO)[6].
- Chất lượng đào tạo là gì? và tại sao 1+1 = <2?
Chuẩn đầu ra hay kết quả đào tạo (chất lượng) ngày nay được đánh gia khác với cách đánh giá của những năm cuối thế kỷ trước. Chuẩn đầu ra hay chất lượng đào tạo của một cấp học, một ngành nghề, theo cách nói thông thường, được tính bằng số thời gian bỏ ra học tập để có số kiến thức (Knowledge) và kỹ năng (Skills) cần thiết hầu có thể sử dụng chúng cho công ăn việc làm. Mỗi bậc và mỗi ngành nghề đòi hỏi năng lực làm việc khác nhau và có chỉ số lương khác nhau.
Kiến thức trong ngành cơ khí chẳng hạn gồm những kiến thức và kinh nghiệm thu lượm được trong các năm theo học (từ các bài giảng lý thuyết của giáo viên về các loại sắt, thép, độ giãn nở, tỷ trọng mỗi loại; từ số lượng vài trăm loại sách, báo, Internet đọc được; từ các chương trình phát thanh, truyền hình, từ những cuộc tham quan, thảo luận, hội nghị, tranh luận…). Còn Kỹ năng (skills) gồm kỹ năng nghề nghiệp (professional skills) và kỹ năng mềm (soft skills hay people skills). Kỹ năng nghề nghiệp như kỹ năng hàn thuộc bậc giáo dục nghề nghiệp chẳng hạn, người sinh viên phải biết kỹ năng hàn, hàn các loại hàn có hình thể khác nhau trong các năm học tập. Đối với ngành cơ khí ở bậc đại học thì người kỹ sư cơ khí phải có năng lực giải quyết vấn đề như đưa ra phương án chế tạo sản phẩm, tổ chức sản xuất theo đơn đặt hàng, kỹ năng đàm phán hợp đồng với khách hàng… Kỹ năng mềm như nghệ thuật giao tiếp với đồng nghiệp, khách hàng, bạn bè, cách thức đi đứng, ăn nói… tất cả những loại văn hóa ứng xử này (văn hóa phi vật thể) thể hiện trình độ văn hóa của một người tốt nghiệp. Lượng kiến thức và kỹ năng ấy có nội hàm khác nhau tùy mỗi sinh viên. Học chung trong cùng một lớp nhưng mỗi sinh viên có một nội hàm khác nhau. Ngoài ra, việc áp dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa kiến thức và kỹ năng cũng tạo nên sự khác biệt rất lớn[7]. Có trường hợp một sinh viên áp dụng Kiến thức (K) và Kỹ năng (S) với Nội hàm (NH) ra kết quả: A (K+NH) + B (S+NH) = C (2). Nhưng cũng có nhiều sinh viên có thể phát minh ra được nhiều sáng tạo có giá trị gấp hàng trăm ngàn lần: A (K+NH) + B (S+NH) = C (≥100).
Qua các thông tin đánh giá không chính thức đâu đó trên mạng xã hội và trên báo chí[8], lượng đọc + khả năng tiếp thu và kỹ năng mềm giữa sinh viên Việt Nam và sinh viên tại các nước phát triển, thì chuẩn đầu ra của sinh viên học tập tại Việt Nam còn ở mức rất thấp. Điều này cho thấy cả các cơ sở giáo dục tại Việt Nam (quá chiều sinh viên? chưa nghiêm khắc đúng mức trong dạy và học?) và sinh viên Việt Nam theo học trong các trường ấy phải cố gắng nhiều hơn nữa (ví dụ đọc sách chuyên ngành nhiều hơn, quyết liệt tìm kiếm thông tin, tăng cường tư duy sáng tạo, tư duy logic, tư duy mở, khả năng thích ứng, luôn luôn chủ động, tập trung nhiều hơn, luôn ở tư thế sẵn sàng khám phá …) nếu họ muốn cạnh tranh với lao động trong vùng và trong khu vực xuyên Thái Bình Dương trong một tương lai gần đây[9]. Các cơ sở giáo dục đào tạo tại Việt Nam nên lưu ý rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 và trách nhiệm lịch sử của các cơ sở giáo dục đào tạo là chuẩn bị cho thế hệ trẻ hội nhập mạnh vào trong cuộc cách mạng ấy.
- Chuẩn đầu ra và khung trình độ quốc gia, trong vùng, trên thế giới?
Các chuẩn đầu ra hay mục tiêu của các môn học tại mỗi cơ sở giáo dục trong một nước phải theo đúng Khung trình độ quốc gia của nước ấy và khung trình độ của nước ấy phải tương thích với Khung trình độ của vùng. Trong tương lai gần khi Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CP-TPP), để nắm bắt những cơ hội, đáp ứng nguồn nhân lực, Khung trình độ Việt Nam sẽ phải tương thích không những với các nước ở Đông Nam Á (AQRF) mà còn với cả các nước ở Bắc Mỹ (North America Occupational Framework).
Để giải quyết đầu ra về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ sở giáo dục đào tạo Việt Nam, có thể trong tương lai không xa Việt Nam sẽ phải tiếp cận với nhiều khung trình độ (nghề nghiệp) khác, như (1) Khung trình độ Bắc Mỹ; (2) Khung trình độ Anh quốc và các nước thuộc khối thịnh vượng Anh (NQF); (3) Khung trình độ Liên minh Châu Âu gồm cả Liên bang Nga (EQF). Ưu tiên Việt Nam phải tiếp cận sâu hơn với Khung trình độ nghề nghiệp trong vùng Đông Nam Á (AQRF), một khung trình độ đã được ký kết giữa các Bộ trưởng Kinh tế, Giáo dục và Lao động trong vùng[10] trong đó có cả Việt Nam.
- Ngành nghề trong các khung trình độ ra sao?
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có 4 lãnh vực để các thành viên của WTO có thể tham gia. Đó là (1) sở hữu trí tuệ, (2) tư vấn, (3) dịch vụ, và (4) sản xuất. Việt Nam phần lớn tham gia lãnh vực số 3 và 4. Lãnh vực số 1 hầu như rất hiếm. Lãnh vực số 2 có một ít nhưng giá trị rất thấp so với Lãnh vực số 3 và số 4.
Về dịch vụ, WTO chia ra làm 12 ngành[11] (như Kinh doanh, Truyền thông, Xây dựng và Kỹ thuật xây dựng, Phân phối, Giáo dục, Du lịch, Giải trí, Vận chuyển…) và trong mỗi ngành (sector) có rất nhiều nhánh (sub-sectors) và trong mỗi nhánh có nhiều chi (items). Ngành nghề đủ các bậc có nhiều nhất tại các nước phát triển. Nước Úc và New Zealand mỗi nước có khoảng trên 600 ngành nghề có mã số ANZSCO đăng ký với WTO.
Số bậc trong mỗi ngành nghề khác nhau trong mỗi nước thể hiện trong các Khung trình độ (nghề nghiệp) mỗi nước. Trong Khung trình độ của Mỹ có 15 bậc (17 nếu có bậc phụ), của Úc có 10 bậc (12 nếu có bậc phụ) và của Việt Nam có 8 bậc (không có bậc phụ). Trong tương lai sau một thời gian Việt Nam tham gia Hiệp định CP-TPP và đất nước phát triển hơn có lẽ Khung trình độ Việt Nam sẽ phải có thêm nhiều bậc chính và bậc phụ.
- Vậy hiểu Khung Trình độ Quốc gia là gì?
Khung trình độ quốc gia, nói rõ hơn là, Khung trình độ nghề nghiệp của mỗi nước có ngành học (khoa học, kỹ thuật, kinh tế, tài chính, ngân hàng, xã hội, nhân văn…) và các cấp học khác nhau. Khung trình độ của Úc có 10 bậc, Mỹ có 15 bậc. Khung trình độ Việt Nam có 8 bậc gồm giáo dục nghề nghiệp có 5 bậc (Bậc 1 cấp Chứng chỉ 1, Bậc 2 cấp Chứng chỉ 2, Bậc 3 cấp Chứng chỉ, Bậc 4 cấp Chứng chỉ 4 và bậc 5 cấp bằng Diplôm), và giáo dục đại học gồm có 3 bậc (Bậc 6 cấp bằng Đại học, Bậc 7 bằng Thạc sĩ và Bậc 8, bậc cao nhất cấp bằng Tiến sĩ).
Khung trình độ quốc gia của một nước là một cái thang có nhiều bậc nghề nghiệp nhằm giúp: (1) các giáo viên biết mình đang giảng dạy loại ngành nghề gì và thuộc trình độ nào, ảnh hưởng ra làm sao đến nghề nghiệp tương lai của người đi học và (2) người đi học chọn lựa được ngành học/bậc học thích hợp với khả năng nghề nghiệp tương lai của mình.
Do tầm quan trọng, Khung trình độ quốc gia có thể được hiểu như sau[12]:
- Khung trình độ quốc gia là chính sách quốc gia quy định các loại bằng cấp và trình độ đào tạo.
- Khung trình độ quốc gia là gạch nối giữa giáo dục đào tạo và thị trường lao động.
- Khung trình độ quốc gia là điểm tựa trong việc khuyến khích học tập suốt đời.
- Khung trình độ quốc gia của mỗi nước giúp những người tốt nghiệp có thể làm việc tại các cơ sở khác nhau trong nước, trong vùng và trên thế giới.
- Văn bằng của Khung trình độ quốc gia là tiền tệ của thị trường lao động.
- Khung trình độ quốc gia của mỗi nước là cơ sở để có các loại hộ chiếu nghề nghiệp nếu người lao động muốn tham gia vào thị trường lao động quốc tế.
- Chuẩn đầu ra, chất lượng, khung trình độ quốc gia và một vài đề xuất?
Sinh viên nếu đến trường học thì đại đa số đạt được chuẩn đầu ra (nói nôm na ai cũng tốt nghiệp), nhưng không phải ai cũng có chuẩn đầu ra như nhau. Tốt nghiệp một chương trình đào tạo và kiếm được việc làm ổn định, lâu dài nhờ hai phía: (1) nhà trường có một chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của công đồng và nằm trong Khung trình độ nghề nghiệp quốc gia, và (2) người tốt nghiệp đạt chuẩn đầu ra với nội hàm phong phú (có nổ lực của cá nhân và động lực thúc đẩy của nhà trường thông qua các hoạt động kiểm định chất lượng).
Sinh viên Việt Nam tốt nghiệp hiện nay gặp ba kịch bản có thực tại Việt Nam:
- Tốt nghiệp, có công ăn việc làm đúng ngành nghề đào tạo, ổn định, lâu dài (qua các công ty tuyển dụng minh bạch).
- Tốt nghiệp, có việc làm đúng ngành nghề, nhưng không ổn định (ví dụ người tốt nghiệp được nhận vào làm vị trí thợ hàn nhưng hàn không đáp ứng yêu cầu, phải bị điều xuống làm công việc thu xếp sắt thép, dọn dẹp công trường trong một thời gian, cuối cùng bị sa thải)
- Tốt nghiệp, kiếm không ra việc làm, phải làm công việc không liên quan đến các ngành nghề đào tạo, ví dụ người tốt nghiệp ngành quản trị kinh doanh, kiếm không ra việc làm, cuối cùng đi làm thợ sửa xe đạp, hay chạy xe ôm…
Để giảm số sinh viên tốt nghiệp không kiếm được việc làm đúng ngành nghề đào tạo, xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh Xã hội, Tổng Cục Thống kê Quốc gia xây dựng Trung tâm Dữ liệu Quốc gia về nhu cầu lao động có tay nghề và cập nhật 6 tháng một lần, còn không tối thiểu một năm một lần. Bộ Lao động còn có sứ mệnh cập nhật danh mục các nghề nghiệp của Việt Nam với WTO và ngược lại và phổ biến rộng rãi những ngành nghề mới được đăng ký với WTO để các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước nắm vững hầu điều chỉnh (thêm, bớt) các chương trình của mình cho phù hợp với nhu cầu lao động trong nước.
- Ngoài ra, các cơ sở giáo dục đào tạo Đại học và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tìm hiểu thêm khuynh hướng phát triển ngành nghề tại các quốc gia trong vùng, trên thế giới để có thể xây dựng các chương trình đào tạo và xuất khẩu nguồn nhân lực có tay nghề cao ra các nước trong vùng và trên thế giới.
- Các cơ sở giáo dục đào tạo Đại học và giáo dục nghề nghiệp Việt Nam có tiềm năng tài chính nên có chính sách liên kết đầu tư đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao nhằm xuất khẩu lao động ra các thị trường trong khu vực thuộc các quốc gia tham gia Hiệp định CP-TPP.
- Do sứ mệnh và mục tiêu tồn vong, các cơ sở giáo dục đào tạo Đại học và giáo dục nghề nghiệp Việt Nam phải quyết tâm nghiêm chỉnh trong các hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo. Không thể để tình trạng chuẩn đầu ra nghèo nàn như tại một số lớn cơ sở giáo dục đào tạo Đại học và giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tiếp tục diễn ra. Có như thế mới hy vọng không còn xẩy ra tình trạng đau lòng nói trên.
Nguyễn Xuân Thu, tháng 4 năm 2018
[1] Mục tiêu hay chuẩn đầu ra (learning outcomes) của một ngành học, môn học được ghi rõ trong Cẩm nang sinh viên của mỗi cơ sở giáo dục đào tạo và sinh viên phải đạt được trong quá trình học tập. Sự thực cụm từ “Chuẩn đầu ra” (Learning outcomes) mới xuất hiện trong một thập kỷ gần đây. Ngày trước người ta thường sử dụng cụm từ “Mục tiêu học tập” hoặc “Kết quả học tập”.
[2] Mỗi trường đại học (College/Faculty/School) thường có các Ban soạn thảo chương trình (Curriculum Development Committee) nằm trong các Khoa (Department). Thời gian từ lúc bắt đầu thiết kế Chương trình đến lúc tuyển sinh giảng dạy mất từ 2 đến 3 năm trong đó có khoảng một năm để dạy thử.
[3] Tại các nước phát triển, xây dựng một chương trình mới liên quan đến công nghiệp phải có ý kiến đóng góp của đại diện doanh nghiệp và nghiệp đoàn lao động.
[4] Rút ngắn một năm học như vậy sinh viên không phải trả học phí và phí sinh hoạt một năm và ra trường sớm hơn một năm đi làm có thu nhập. Đó là lợi về mặt tài chính, nhưng chương trình học vẫn có chất lượng vì ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin thời gian học tập được giảm bớt rất nhiều.
[5] Do yêu tố lịch sử, lao động có một động lực rất lớn trong máu huyết của người dân Úc da trắng. Nhờ lao động mà tổ tiên họ có được tự do, công bằng, dân chủ và nhân phẩm.
[6] Hiệp định tổng quan về thương mại về dịch vụ (GATS).
[7] Lao động sáng tạo của các bậc trong Khung trình độ Úc: Knowledge + Skills = Application of Knowledge + Skills
Skills = Professional Skills + Soft Skills
[8] Xem bài “Thế nào là chất lượng giáo dục đại học”, tác giả Nguyễn Xuân Thu, đăng trên báo Lao Động số 246, ngày 30/10/2009.
[9] Các cơ sở giáo dục cần có chính sách đào tạo đặc biệt để giúp sinh viên Việt Nam tốt nghiệp có năng lực cạnh tranh không thua kém đối với sinh viên quốc tế.
[10] Xem http://asean.org/storage/2017/03/ED-01-AQRF-Governance-and-Structure-document.pdt
[11] Xem WTO Services Sectorial Classifications List https://unstats.un.org/unsd/tradekb/Knowledgebase/Sectoral-Classification-List-W120
[12] Xem Australian Qualifications Framework www.aqf.gov.com.au